Tuyệt thực đi về đâu – Trạng thái tự phân

“Trạng thái tự phân trong lúc nhịn ăn đã làm ra phép lạ đó. Đây là một phép lạ hiển nhiên để cho ta thấy khả năng của cơ thể đã làm gì trong lúc nhịn ăn.”

Tự phân là trạng thái tiêu hoá hay phân hoá các tế bào nhờ các enzym ở ngay trong tế bào. Đó là một quá trình tự tiêu hoá, nội bào tiêu hoá (tiêu hóa nội bào). Trạng thái tự phân này chẳng phải riêng cho động vật mà cả nơi thực vật. Các trường hợp hạt nảy mầm, cành nứt rễ, củ nứt nhánh, nứt lá đều là hiện tượng tự phân để tu dưỡng hoặc sinh trưởng cả.

Trong trường hợp trứng được ấp để nở ra con cũng là một quá trình tự phân để tự dưỡng: cái trứng phải tự phân các chất bổ dưỡng tạo ra cơ thể và nuôi dưỡng phôi thai cho đến lúc trưởng thành khảy vỏ thoát ra ngoài. Muốn tạo ra các tế bào của cơ thể thì thức ăn kia phải được tiêu hoá và sự tiêu hoá này phải được thực hiện nhờ các phân hoá tố của phôi thai xuất tiết. Ta bẻ gẫy cái đuôi của con thằn lằn, rồi bắt nó nhịn ăn, chỉ một thời gian sau là cái đuôi mới lại mọc ra. Con nòng nọc lúc sắp biến thành cóc hoặc ếch, nhái thì cái đuôi nó trở thành vô dụng; người ta thường tưởng rằng cái đuôi ấy rụng đi, nhưng trên thực tế cái đuôi ấy gồm thịt, mỡ, da, thần kinh tự phân hóa dần để đưa vào trong máu bồi dưỡng cho con vật nhịn đói lúc hai chân trước bắt đầu mọc. Thức ăn do sự tự phân trên thay thế thực phẩm bên ngoài giúp con vật hoàn thành kiến tạo các bộ phận trong cơ thể một cách mỹ mãn để bước từ giai đoạn nòng nọc sang giai đoạn ếch, nhái.

Trường hợp con thằn lằn thì thức ăn tự phân trong cơ thể để tái tạo đuôi. Còn trường hợp con nòng nọc thì cái đuôi tự phân để cải tạo nội tạng của con nhái.

Con tằm sau 30 ngày ăn dâu, kéo kén nằm nghỉ nhịn ăn, có thể tự phân biến đổi thành bướm ngài xé kén bay ra. Các cơ cấu cũ đều bị phá huỷ, các vật liệu cải tổ, các bộ phận được kiến tạo ra và thiết lập lại đến nỗi khi ra khỏi kén so sánh con bướm ngài với con tằm ngày trước ai cũng phải cho rằng đó là hai giống khác nhau. Trạng thái tự phân trong lúc nhịn ăn đã làm ra phép lạ đó. Đây là một phép lạ hiển nhiên để cho ta thấy khả năng của cơ thể đã làm gì trong lúc nhịn ăn.

Con thú bị trọng thương nhịn ăn thế mà vết thương đóng sẹo. Những lượng máu vĩ đại được vận chuyển đến phần thương tích tỏ ra một số thực phẩm lớn được đem lại nơi này. Máu làm động tác phân phối trên mọi hình thức của đời sống. Con vật nhịn ăn phải nhờ đến thức ăn dự trữ để hàn gắn lại các mô bị rách nát, bị cắt đứt hay gãy vỡ. Các thức ăn dự trữ trước hết được tự phân hoá rồi chuyển vận đến chỗ nào mà cơ thể cần dùng. Cơ thể chẳng những có thể phân phối các thức ăn dự trữ mà còn có thể phân phối lại cho thích hợp với tình trạng cơ thể nhờ phương pháp tự phân.

Trạng thái tự phân là một quá trình được kiểm tra chặt chẽ chứ không phải một quá trình mù quáng như thả voi trong hàng đồ gốm. Trong lúc con nhái ở tình trạng nòng nọc nhịn ăn thì cái đuôi tự nó phân hoá thành thức ăn và tiêu mất chứ không bao giờ có một cái chân hay một cơ quan nào khác bị tự phân. Một con đỉa bị chặt thành nhiều mảnh, mỗi mảnh tự phát triển và biến dần thành một con đỉa mới. Mỗi mảnh như vậy không thể hấp thụ thức ăn ở ngoài để trưởng thành. Vì vậy, mỗi mảnh phải phân phối lại các thức ăn dự trữ nhờ tự phân để tạo thành một con đỉa mới nhỏ xíu.

Sau đây là những trường hợp tự phân phát hiện trong nhiều giai đoạn trong đời sống của con người: sự thu nhỏ nhũ tuyến (tuyến vú ở phụ nữ) sau thời kỳ cho con bú, sự thu bóp tử cung sau khi sinh đẻ, thu bé toàn thể của cơ thể người già, sự tan các nước vàng trong phổi lúc bị bệnh sưng phổi, sự thu nhỏ hạch thymus (tuyến ức) lúc dậy thì. Trong thời kỳ nhịn ăn, các cơ quan trọng yếu như tim, não không thể ngừng nghỉ được nên phải cần cung cấp các thực vật như prôtêin, glucit, lipit, khoáng chất, vitamin, vì vậy phải rút các thức ăn trong bắp thịt của bộ xương được xem như những cơ quan để cử động nhưng đồng thời cũng là kho dự trữ prôtêin. Các prôtêin của bắp thịt và cơ quan khác được tự phân hoá nhờ các enzym nội bào tiến thành prôtêin tan loãng, thành acit amin để chuyên chở tới các cơ quan trọng yếu cho sinh mạng.

Ta cũng nên để ý rằng sự kiểm tra của trạng thái tự phân bào gồm cả các mô đau ốm như mụn nhọt, vết ung mủ, các chứng rỉ nước…

Sự việc trạng thái tự phân là một quá trình được kiểm tra chặt chẽ chứ không phải phó thác cho rủi may, là một sự đảm bảo để chúng ta khỏi thắc mắc về vấn đề các mô cần thiết cho sinh mạng có bị hy sinh một cách bừa bãi trong thời gian nhịn ăn hay không? Và chúng ta đã biết một cách chắc chắn rằng chỉ những mô không quan hệ mới bị phân hoá để vận chuyển đến nuôi các cơ cấu cần thiết cho sinh mạng.

Qua các nhận xét trên, ta có thể rút ra kết luận sau:

  1. Nhờ các diệu tố (enzym) nội bào, cơ thể có thể tiêu hoá các chất đạm, mỡ, đường của cơ thể mình nhờ sự phân hoá.
  2. Cơ thể có thể kiểm tra quá trình tự phân, giới hạn sự phân hoá ở các mô không quan trọng hoặc ít quan trọng. Và dù đến tình trạng đói ăn, khi đã phạm đến giới hạn các mô cần thiết cho sinh mạng vẫn có một sự kiểm tra chặt chẽ và các mô tự phân để cung dưỡng vẫn là các mô tương đối kém quan trọng.

Sự phân hoá các mụn nhọt: Các nhà sinh vật học đều công nhận rằng các cơ cấu sinh trưởng bất thường như bướu, ung nhọt, sưng… tất nhiên không cần thiết cho sinh mạng bằng các mô bình thường, vì vậy chúng dễ bị huỷ hoại hơn nhiều. Trên phương diện sinh lý ta cũng thấy rằng chúng dễ bị phân hóa vì nó không có một liên hệ mật thiết gì với cơ thể, không đầy đủ thần kinh và khí huyết… Sự thiếu sót này là yếu tố làm cho chúng dễ bị phân hoá.

Những người nhiều kinh nghiệm về bản thân hoặc quan sát về phép nhịn ăn đều đồng ý rằng các mô bất thường dễ bị phân hoá và bài tiết nhanh hơn các mô bình thường.

Các nhà sinh lý học tuy có nghiên cứu quá trình tự phân nhưng họ không biết áp dụng vào đâu mà chỉ dùng độc một cách là để làm cho gầy người mà thôi. Đáng lẽ ra họ phải biết lợi dụng trong trường hợp hiện tượng tự phân để tiêu hoá các mụn nhọt và dùng các chất đạm cùng các chất bổ dưỡng khác của nó để nuôi các mô cần thiết cho sinh mạng. Quá trình tự phân có thể có một công dụng thực tế vì nó có thể dùng để phân hoá các mụn nhọt, các cục bướu. Ai cũng biết rằng trong các mụt, các bướu gồm có thịt, có máu, có xương, tuỳ đó mà có các danh từ bướu xương để gọi các mô xương, bướu cơ để gọi các mô thịt, bướu thần kinh để gọi các mô thần kinh, bướu mỡ để gọi các mô mỡ, bướu xơ để gọi các mô xơ, bướu nham thượng bì để gọi các mô thuộc thượng bì .v.v…

Các bướu trên gọi chung với danh từ chuyên môn là tổ chức mới néoplasme (- tiếng Pháp, Neoplasm – tiếng Anh).

Một bướu lớn cứng trên vú có thể chỉ là chỗ sưng của một hạch lâm ba hay một hạch vú. Một cái hạch bị sưng như vậy có thể rất đau đớn nhưng không phải là một tổ chức mới.

Độc giả đã thấy rõ sự nhịn ăn có thể phân hoá mỡ và các thớ thịt thì hẳn chẳng còn thắc mắc về sự tự phân làm tiêu hoá mất các mụt sưng bướu .v.v…

Trong lúc nhịn ăn, các mô thừa thãi tích luỹ đều được chú ý và phân tích; các thức ăn phân hoá được sung dụng để nuôi dưỡng các mô quan trọng, các cặn bã đều được đào thải một cách thường xuyên và trọn vẹn. Các mụt bướu được tiêu hoá lúc nhịn ăn được thực hiện mau hay chậm còn tuỳ thuộc vào tình trạng chung của người bệnh, lượng bổ dưỡng chứa trong người, loại bướu, sưng, sự cứng hay mềm của cục bướu, vị trí của cục bướu và tuổi tác của người bệnh. Đây là hai ví dụ cực đoan chứng minh sự khác nhau về mau, chậm:

  • Một người đàn bà dưới 40 tuổi có một bướu xơ (fibroma) ở tử cung (u xơ tử cung) to bằng quả trứng trung bình. Sau 20 ngày nhịn ăn, bướu này tiêu hoàn toàn.
  • Một người đàn bà khác trạc tuổi có một cục bướu bằng quả trứng ngỗng. Nhịn ăn 38 ngày thì bướu mới chịu tan. Đó là trường hợp một nhanh một châm.

Những khối cứng nơi vú nhỏ từ bằng một hạt đậu đến lớn bằng quả trứng ngỗng đều có thể tiêu mất từ khoảng 3 ngày đến 3 tuần. Đây là một trường hợp đặc biệt vừa lý thú vừa bổ ích: Một thiếu phụ 21 tuổi có một cục sưng lớn ở vú bên phải làm đau nhức 4 tháng. Đến khám nhiều bác sĩ đều cho là ung thư và khuyên nên cắt vú gấp. Nhưng cuối cùng bà ta theo lời một người bạn và nhịn ăn chứ không chịu mổ xẻ. Sau 3 ngày nhịn ăn, cục cứng tiêu mất và đau đớn cũng không còn, sau đó mấy chục năm bệnh đó cũng không bao giờ tái lại.

Hàng vạn trường hợp như trên bị người ta gán là ung thư, là sang nhọt, âm độc.v.v… đã bị mổ xẻ một cách oan uổng trong lúc có thể chữa lành một cách dễ dàng nhờ phép nhịn ăn.

Những trường hợp như trên làm cho ta nghi ngờ lời tuyên bố các bác sĩ bảo rằng bệnh ung thư sớm biết mà mổ xẻ có thể ngăn ngừa và chữa lành tuyệt nọc!

Vợ một kỹ nghệ gia bị mụt cứng bằng quả hồ đào ở vú đến khám nhiều bác sĩ, ông nào cũng khuyên một cách nồng nhiệt là nên cắt vú đi cho rồi. Nhưng bà ta không nghe và nhịn ăn trong 1 tháng thì cục cứng kia thu nhỏ lại bằng hạt đậu. Sau đó ăn chay 1 tháng thì mụn kia mất luôn. Một thời gian bà ta sinh 2 đứa con cũng đều cho con bú và đứa nào cũng mạnh khoẻ.

Sự phân hoá các bướu sưng do nhịn ăn có nhiều ưu điểm hơn sự giải phẫu như sau:

  1. Sự giải phẫu bao giờ cũng nguy hiểm, tự phân là một quá trình sinh lý không nguy hại.
  2. Sự giải phẫu giảm sinh lực và giúp thêm sự suy bại về biến dưỡng là nguyên nhân của mụt bướu; trái lại nhịn ăn thúc đẩy sự tự phân các bướu nhọt và bình thường hoá sự dinh dưỡng, đào thải các độc tố tích tụ, giúp sự tiêu tan các bướu nhọt.
  3. Sau khi mổ xẻ, bướu mụt đó có khuynh hướng phát sinh lại; trái lại nhịn ăn thì trường hợp tái sinh hết sức hiếm khi xảy ra.
  4. Các bướu mụt thường tái phát dưới một hình thức độc hại sau lúc giải phẫu. Trái lại nếu có một bướu ung nào có khuynh hướng làm độc thì sự nhịn ăn ngăn trở việc thành hình.

Nữ bác sĩ Hazzard (Linda Hazzard) kể một trường hợp được nhiều bác sĩ cho là ung thư dạ dày đã lành hẳn sau 55 ngày nhịn ăn.

Bác sĩ Shelton (Herbert M. Shelton) kể nhiều trường hợp bướu tử cung đã tiêu mất sau 30 ngày nhịn ăn.

Có nhiều trường hợp để bướu to quá thì phải nhịn ăn làm nhiều kỳ trong 2-3 năm và giữa các thời kỳ nhịn ăn phải tiết thực các món ăn huyết nhục (máu thịt). Trong nhiều trường hợp ung thư đáng lẽ phải dùng thuốc chỉ thống (thuốc giảm đau) để làm dịu sự đau đớn, người ta chỉ nhịn đói 3- 4 hôm là dịu hẳn cơn đau liền.

Trên phương diện Âm -Dương như chúng ta đã thấy, sự tự phân là một trạng thái Âm nhưng chính nhờ sự tự phân đó mà các cơ quan chính yếu được nuôi dưỡng để bảo tồn sinh mạng. Sự bồi dưỡng để bảo tồn sinh mạng phục vụ ý sống đó là một trạng thái Dương. Âm-Dương quấn quýt lấy nhau, bổ trợ cho nhau, cùng nhau đắp đổi để đồng sanh hoá.

Nhịn ăn tạo thời cơ thuận lợi cho cơ thể có đủ điều kiện thi triển quá trình sinh lý tự phân. Chính trong lúc nhịn ăn mà phát sinh các sự biến dịch nhiệm màu đổi trứng thành con chim, con tằm, con ngài, con sâu thành con bướm, con quăng thành con muỗi, con ấu trùng thành con ong, con ruồi, con muỗi mắt .v.v… Thì trong lúc con người nhịn ăn, sự bớt chỗ thừa bù chỗ thiếu, lập lại quân bình Âm-Dương cho cơ thể, sự phục hồi sinh lực, sự hàn gắn trùng tu, bồi bổ các cơ cấu hư hỏng đâu phải là những điều ngoài ước vọng, những chuyện viển vông…

Trên quan điểm Dịch lý, trạng thái tự phân là một quá trình biến cái khiếm khuyết thành cái hoàn hảo, biến hoá bướu nhọt độc hại phá hoại sức khoẻ thành thức ăn tinh khiết nuôi dưỡng cơ thể, biến đổi oan tặc thành bạn hữu, cải tạo hận thù thành tình thương.

(Hết phần Trạng thái tự phân)

Tag trong bài viết:

Xin lưu ý: Một số thuật ngữ trong sách này, nhất là danh từ, có thể ít được sử dụng hoặc không còn được sử dụng ngày nay. Chúng tôi chú thích bằng thuật ngữ tương đương trong dấu ngoặc đơn và in nghiêng. Ví dụ: trụ sinh (kháng sinh).

Vui lòng dẫn nguồn nhinanchuabenh.com khi sử dụng thông tin từ trang này. Xin cảm ơn!

Gửi phản hồi