Trong lúc nhịn ăn, cơ thể phải mất một số chất liệu nhưng không phải là loại nào cũng mất một lượng ngang nhau. Một chất cần thiết cho cơ thể bao nhiêu lại càng chậm tiêu hao bấy nhiêu.
Người ta nhận thấy rằng trong thời gian nhịn ăn, các mô trong cơ thể không phải mô nào cũng suy tổn theo một tốc độ giống nhau: những mô nào không quan trọng cũng được dùng nhanh chóng hơn, những mô ít quan hệ chậm thua còn những mô quan trọng thì không bao giờ mang ra dùng lúc ban đầu mà chỉ dùng hết sức tằn tiện vào phút cuối cùng. Thiên nhiên luôn luôn ưu đãi các cơ quan cần thiết cho sinh mạng. Ban đầu là các chất mỡ tiêu dần, sau đó là các mô ít cần thiết. Các mô cần thiết cho sinh mạng được nuôi dưỡng bằng các thức ăn dự trữ trong các mô ít quan trọng do tác dụng các enzym, đó là quá trình tự phân như ta đã thấy trước kia.
Theo sự phân tích trên nhiều trường hợp chết vì đói, người ta nhận thấy sự suy tổn đại để theo tỷ lệ như sau:
- Mỡ 91%
- Lá lách 63%
- Gan 56%
- Bắp thịt 30%
- Máu 17%
- Thần kinh 0%
Như vậy tỏ rằng (chứng tỏ rằng) não và thần kinh hệ không hề suy suyển đến cùng để giữ sự toàn vẹn về cơ cấu và tác dụng trên cơ sở cho khỏi phạm đến năng lực dinh dưỡng trong lúc các mô khác đều bị suy tổn nặng nề. Tùy tình trạng suy kiệt trầm trọng như vậy mà máu huyết vẫn không có sự hao giảm lớn lao như người ta thường tưởng.
Do sự linh mẫn của bản năng, cơ thể ta luôn luôn có sự lựa chọn, sự hy sinh hợp lý các mô ít quan trọng để bảo vệ đến cùng những cơ quan chủ yếu cần thiết cho sinh mạng chúng ta như tim, phổi, não, thần kinh và các cơ quan trọng yếu khác. Ngay đến các bắp thịt liên hệ đến sự hô hấp cũng được bảo vệ chu đáo hơn những bắp thịt khác trong người.
Ta thử đi vào một ít chi tiết về sự suy tổn các cơ quan và các mô quan trọng ngỏ hầu có một sự nhận định chính xác hơn về vấn đề nhịn ăn.
Những sự thay đổi về máu: Dung lượng máu giảm dần theo tỷ lệ sự suy giảm bớt thể tích của thân hình nên lượng và phẩm của máu hầu như tương đương với cơ thể và không có sự thay đổi nào trong lúc nhịn ăn mà máu còn trẻ trung đổi mới lại là khác.
Bác sĩ Rabagliati (Andrea Rabagliati) chứng minh rằng cái tác dụng đầu tiên của phép nhịn ăn là tăng thêm số hồng huyết cầu chỉ trừ khi nào nhịn ăn đến giai đoạn đói ăn số hồng huyết cầu mới bị sụt giảm xuống.
Pahustin thuật lại trường hợp chết sau 4 tháng 12 ngày (132 ngày) không ăn, thế mà 2 ngày trước khi chết máu vẫn chứa 4.849.400 hồng huyết cầu và 7.852 bạch huyết cầu mỗi ly khối (cm3)
Giáo sư Stengel viết: “Trong lúc nhịn ăn, máu vẫn giữ sự sung túc huyết cầu một cách không ngờ dù sau một thời gian dài.”
Jackson viết: “Trong thời gian nhịn ăn, số hồng huyết cầu thường thì vẫn giữ mức trung bình nhưng đôi khi tăng lên trong thời kỳ nhịn ăn và giảm sút bớt trong thời kỳ đói ăn. Nơi thú vật cũng vậy trừ phi trường hợp Đông miên (ngủ đông) thì số hồng huyết cầu có nhiều thay đổi”.
Trong buổi nói chuyện ở Chicago, bác sĩ Tilden (John Henry Tilden) tuyên bố: “Nhiều trường hợp bần huyết (thiếu máu) kinh niên sau khi nhịn ăn trong một tuần lễ mà số hồng huyết cầu đã tăng gấp đôi”.
Bác sĩ Weger kể một trường hợp bần huyết sau đó nhờ nhịn ăn 12 ngày mà hồng huyết cầu tăng lên từ 1.500.000 lên 3.000.000, sắc tố máu tăng lên 50% và bạch huyết cầu giảm từ 37.000 xuống 14.000.
Máu bình thường chứa từ 4.500.000 đến 5.000.000 và có khi lên đến 6.000.000 hồng huyết cầu trong mỗi ly khối ở những người trẻ tuổi khoẻ mạnh và 3.000 đến 10.500 bạch huyết cầu với một mật độ trung bình là từ 5.000 đến 7.000 mỗi ly khối.
Bác sĩ Win H. hay thuật lại rằng 101 trường hợp bần huyết kinh niên do ông ta chữa trong 21 năm chữa bệnh bằng phép nhịn ăn, chỉ có 8 trường hợp là không có hiệu quả. Có vài trường hợp bệnh tái phát nhưng nhịn ăn lại lần khác là bệnh lành hẳn.
Có người bảo rằng nhịn ăn làm giảm kiềm chất trong người và sinh ra sự nhiễm axit phát hiện bằng những triệu chứng như là rã rượi mệt mỏi, đau đầu, nhức chân, đau lưng, dễ nóng nảy, lưỡi đỏ, da trong mồm đỏ, đôi khi hay buồn ngủ và hơi thở có mùi trái cây. Các triệu chứng này phát hiện lúc mới nhịn ăn nhưng dần dà sẽ dứt hẳn sau một thời gian tiếp tục nhịn ăn và nếu để ý ta sẽ thấy rằng triệu chứng này hễ càng trầm trọng thì người bệnh nhịn ăn càng được nhiều lợi ích và kết quả càng mau chóng hơn.
Da: Trong lúc nhịn ăn, nước da trở nên mịn màng và hồng nhuận chứng tỏ rằng da đã non trẻ lại. Các tì, bớt, các vết nhăn đều biến mất đủ chứng tỏ ý nghĩa của sự tốt lành mà da đã thu hoạch được trong thời gian nghỉ ngơi của thể chất sinh lý. Hiện tượng này có thể nhận thấy sau thời kì nhịn ăn, phản ảnh cho một tình trạng sức khoẻ khả quan.
Xương: Xương không hề bị tiêu hao trong thời kỳ nhịn ăn, chẳng những thế nó còn tiếp tục tăng trưởng nữa là khác. Còn tuỷ là một thức ăn tích trữ: tuỷ có thể loãng hơn nhưng điều đó cũng chưa xảy ra trong giai đoạn nhịn ăn.
Răng: Nhiều người nghĩ rằng nhịn ăn thì hỏng răng hết thảy. Thành kiến này không đúng tí nào cả và những người kinh nghiệm trong phép nhịn ăn đều phủ nhận ý kiến trên.
Jackson nói: “Cũng như bộ xương, răng tỏ ra rất bền bỉ trong thời gian nhịn ăn. Trong thời gian nhịn ăn, uống hoặc chỉ uống nước trong mà thôi, răng những người đã trưởng thành không có sự biến đổi gì về trọng lượng hoặc về cơ cấu đáng kể”.
Điều nói trên đã được chứng nghiệm nhiều lần trong phòng thí nghiệm.
Bác sĩ Shelton (Herbert M. Shelton) đã săn sóc hàng ngàn người bệnh bằng phép nhịn ăn xác nhận rằng chưa bao giờ thấy có sự hư hại nơi răng do những cuộc nhịn ăn dài hạn. Ông Pearson kể lại rằng: “Sau thời kỳ nhịn ăn, những cái răng có lỗ đen đều biến thành trắng, mọi chỗ sâu hầu như dừng lại nhờ nhịn ăn và tôi không còn đau răng nữa”.
Răng lung lay cũng trở nên chắc lại nơi nướu răng trong thời gian nhịn ăn.
Não, tuỷ, xương sống và thần kinh: Não và thần kinh hệ đều được cấp dưỡng đầy đủ và duy trì trong thời gian nhịn ăn mất rất ít hay không hề mất trọng lượng trong lúc các mô kém quan trọng phải hy sinh để bảo tồn các bộ phận trên. Nó vẫn giữ nguyên năng lực kiểm soát các tác dụng, các hoạt động của cơ thể một khi vẫn còn được nuôi dưỡng bằng các thức ăn dự trữ tự phân.
Tuỷ xương sống mất không đầy 10%, còn não thì không suy suyển chút nào trong các trường hợp chết đói. Hầu như chẳng có sự thay đổi nào về cơ cấu trong não và trong tuỷ sống ở những người chết đói.
Thận: Các sự suy tổn của thận không đáng kể so với sự suy tổn chung của cơ thể.
Gan: Trong lúc nhịn ăn gan mất rất nhiều về nước, glycogene và mỡ, vì vậy so với các cơ quan khác, gan mất rất nhiều trọng lượng trong lúc nhịn ăn.
Phổi: Phổi thu được nhiều lợi ích trong phép nhịn ăn, điều này được chứng minh trong việc chữa lành bệnh lao sau một thời gian nhịn ăn.
Thời gian nhịn ăn để chữa bệnh về phổi thường là phải ngắn hơn thời gian nhịn ăn để chữa bệnh ở các cơ quan khác. Carrington(Hereward Carrington) nghĩ rằng điều này có lẽ do các mô của phổi “có khả năng cố hữu tự chữa lành trong một thời gian ngắn hơn và trọn vẹn hơn bất cứ ở một cơ quan nào khác”.
Các bắp thịt, tim: Các bắp thịt của bộ xương có thể mất 40% trọng lượng trong lúc các bắp thịt tim chỉ mất độ 3% trước khi chết đói.
Đại để các thức ăn dự trữ trong các bắp thịt được đem ra dùng trước và dùng nhiều hơn các cơ trơn. Các tế bào tuy bé nhưng vẫn được hoàn toàn vô hại.
Theo những kết quả thu hoạch được trong những bệnh thuộc về tim trong giai đoạn nhịn ăn thì thấy rằng tim hưởng được nhiều lợi ích do 3 duyên cớ chính sau đây:
- Nhịn ăn huỷ bỏ sự kích thích thường xuyên của tim.
- Cất một gánh nặng cho tim và cho phép nó được nghỉ ngơi.
- Lọc máu trở thành trong sạch, cấp dưỡng cho tim những thức ăn tinh tuý, bổ dưỡng hơn.
Tim đập 80 lần mỗi phút tức là 115.200 lần suốt trong 24 giờ, sau một thời gian nhịn ăn tim giảm bớt xuống 60 lần suốt thời gian nhịn ăn, như vậy là chỉ đập 86.400 lần mỗi ngày, đập ít lại 28.800 nhịp so với trước khi nhịn ăn, như vậy là giảm được 25% công việc của tim.
Trong lúc nghỉ ngơi đó tim hàn gắn, bồi bổ những cơ cấu hư hỏng.
Carrington nói rằng: “Quả tim bao giờ cũng được tăng sức và trở nên cường tráng nhờ phép nhịn ăn là điều chắc thật vượt trên mọi sự hoài nghi. Tôi chủ trương rằng nhịn ăn là phương thuốc thần hiệu nhất để chữa bệnh tim yếu, là phép trị liệu hợp lý về phương diện sinh lý.”
Chỉ khi nào tiềm thức có những ý tưởng lo sợ, ngại ngùng thì cơ thể hoặc cơ quan mới bị suy yếu trong lúc nhịn ăn.
Tỳ tạng (lá lách): Trong thời gian nhịn ăn, tỳ tạng con người thường bé lại và cũng chắc lại. Tuy nhiên có nhiều trường hợp giải phẫu người chết đói, người ta thấy tỳ tạng vẫn bình thường.
Tuỵ tạng: Trong thời gian nhịn ăn, phần lớn tổn thất của tuỵ tạng là nước. Nơi những người chết đói, trọng lượng của tuỵ tạng có thể mất đến 67%.
Dạ dày: Một cái dạ dày yếu và mắc chứng khó tiêu sẽ trở lại hoạt động bình thường sau giai đoạn nhịn ăn. Các bắp thịt và các hạch được cải tạo lại sau một thời gian nghỉ ngơi. Đa số các dạ dày bị suy kiệt vì lao lực do thói quen ăn uống quá độ nên nhịn ăn là sự nghỉ ngơi cần thiết mà dạ dày đòi hỏi để hồi phục sinh lực.
Những sự nhạy cảm bệnh hoạn mất đi, sự tiêu hoá được cải thiện, dạ dày bị căng dãn và sa xuống được co trở lại về thể tích bình thường, các ung sang (khối u) tự lành, các chỗ sưng lắng dịu, chứng viêm nước dạ dày được bài tiết và lần hồi sự ngon miệng thèm ăn trở lại.
Những sự biến đổi hoá học: Dĩ nhiên là trong lúc nhịn ăn, cơ thể phải mất một số chất liệu nhưng không phải là loại nào cũng mất một lượng ngang nhau và điều đáng để ý là có một sự phân phối lại cho thích hợp với nhu cầu khẩn cấp để bảo toàn khí lực cho các cơ quan cần thiết đến sinh mạng.
Một chất cần thiết cho cơ thể bao nhiêu lại càng chậm tiêu hao bấy nhiêu. Bắp thịt và máu tương đối mất nhiều khoáng chất, ví dụ như chất sodium (natri), trái lại trong số lớn khoáng chất lại được tăng trữ ở não, ở tuỵ tạng và ở gan.
Trong lúc chất diêm sinh (lưu huỳnh) và chất lân (phốt pho) giảm ở bắp thịt trong lúc nhịn ăn thì trái lại chất vôi (canxi) lại tăng lên ở đó. Phân suất (tỉ lệ) potassium (phốt pho) tăng lên nơi những phần mềm ở trong người, chất sắt không hề bị bài tiết trong lúc nhịn ăn.
(Hết phần Những biến cải hóa học và tổ chức nơi cơ thể trong lúc nhịn ăn)
- Mục lục
- Phần sau: Sự thay đổi những cơ năng căn bản của cơ thể trong thời kỳ nhịn ăn
- Phần trước: Trạng thái tự phân
Tag trong bài viết:
Xin lưu ý: Một số thuật ngữ trong sách này, nhất là danh từ, có thể ít được sử dụng hoặc không còn được sử dụng ngày nay. Chúng tôi chú thích bằng thuật ngữ tương đương trong dấu ngoặc đơn và in nghiêng. Ví dụ: trụ sinh (kháng sinh).
Vui lòng dẫn nguồn nhinanchuabenh.com khi sử dụng thông tin từ trang này. Xin cảm ơn!