Người bệnh theo bản năng mà nhịn ăn nhưng thường các y sĩ, các người nuôi bệnh hay cha mẹ, anh, em bệnh nhân lại ép uổng người bệnh cố ăn để giữ sức. Thực là một điều lầm lẫn lớn mà người ta không ngờ đến.
Nơi con người, người ta nhịn ăn với nhiều mục đích, vì nhiều trường hợp: nhịn ăn về tôn giáo, nhịn ăn để ước nguyện, nhịn ăn vì giới luật, nhịn ăn để làm reo (đình công), nhịn ăn để biểu diễn lấy tiền, nhịn ăn để thí nghiệm, nhịn ăn vì không ăn được, vì tàu chìm, vì hầm mỏ sụt…
Theo Giáo sư Agostino Levanzin, con người có thể mất 60% sức nặng trung bình cơ thể mà không có gì nguy hiểm đến tính mạng hay suy giảm sức khoẻ. Theo ông thì một phần lớn sức nặng của cơ thể bình thường cũng là những thức ăn dự trữ.
Nhịn ăn trong trường hợp không ăn được, ví dụ bị ung thư dạ dày, dạ dày bị huỷ hoại vì axít, v.v…
Ngày nay nhiều người cho rằng ốm đau thì phải ăn để bảo vệ sức khoẻ và nếu không ăn thì sức đề kháng sẽ giảm đi và người ta sẽ bị mất sức, như thế có nghĩa là nếu như người bệnh không ăn thì có thể chết được. Trên thực tếthì trái lại: hễ càng ăn thì càng dễ chết.
Khi thú vật đau thì chúng nhịn ăn và chỉ khi nào đã bình phục nó mới chịu ăn lại.
Người ta phải nhịn ăn, vì chiến tranh, vì hạn hán, vì sâu bọ phá hoại mùa màng, vì bão lụt, vì động đất, vì giá băng, v.v… đã gây sự đói kém cho dân chúng cả một vùng, một xứ. Có trường hợp họ còn thực phẩm, nhưng cũng có trường hợp họ không có mảy may. Trong những trường hợp này chính khả năng nhịn ăn là phương tiện hữu hiệu để bảo tồn sinh mạng.
Sự buồn rầu, lo lắng, hờn giận, xáo trộn tinh thần và những giao động tình cảm khác cũng có tác dụng tai hại trên sự tiêu hoá không kém sự đau đớn, cơn sốt hoặc các viêm chứng trầm trọng.
Những người điên cũng thường ghét các món ăn, thế mà người ta lại thường cố ép bắt họ ăn, đôi khi với những cách rất tàn nhẫn. Sự ghét món ăn là một hành động của bản năng rất thích hợp.
Bác sĩ Page kể chuyện một người bị bệnh tinh thần (bệnh tâm thần) phục hồi tình trạng bình thường sau 41 ngày nhịn ăn sau khi đã đủ cách chữa chạy với các phương pháp khác.
Nhịn ăn theo bản năng là chuyện rất thường: Người bệnh có thể vẫn làm lụng công việc nhưng vẫn thấy không thèm ăn vì bản năng cơ thể biết rằng ăn như thường ngày sẽ tăng bệnh. Nhưng người ta thường nghĩ rằng ăn không biết ngon là một tai biến và tìm mọi cách ăn cho nhiều, tưởng rằng làm như vậy thì chóng bình phục: Người ta thay đổi món ăn, uống rượu khai vị, uống thuốc kích thích dạ dày, v.v…
Người ta có thành kiến lầm lạc sợ chết đói vì nhịn ăn, có biết đâu rằng một đứa bé có thể nhịn ăn đến 70 ngày, nhiều người chẳng những có thể nhịn ăn được 76 ngày mà còn có thu được nhiều lợi ích cho sinh lực.
Muni Shrri Misriji, một tín đồ đạo Jain đã nhịn ăn 132 ngày để thuyết phục kêu gọi các đồng môn đoàn kết thống nhất.
Năm 1928, các báo y học ở Balê (Paris) đăng tin một thiếu nữ mắc bệnh thương hàn đã nhịn ăn 110 ngày.
Bác sĩ Dewey thuật chuyện hai đứa bé vì uống nước bồ tạt hư hoại dạ dày, một đứa vẫn sống 75 ngày và một đứa sống hơn 3 tháng không ăn uống gì cả nhưng tinh thần vẫn sáng suốt đến giờ phút lâm chung.
Bác sĩ Hazzard (Linda Hazzard) kể chuyện một thiếu phụ mắc bệnh phì mập (béo phì) và sưng thận kinh niên đã nhịn ăn trong 60 ngày. Bà này nhờ vậy lành mạnh trở lại và sinh đứa con đầu tiên sau 20 năm hôn lễ.
Bác sĩ còn kể câu chuyện một người bệnh kinh niên trong khoảng 140 ngày đã nhịn ăn 118 ngày và nhờ vậy sau đó sức khoẻ được phục hồi.
Bác sĩ Shelton (Herbert M. Shelton) nói rằng vụ nhịn ăn lâu nhất dưới sự săn sóc đích thân của ông là 68 ngày.
Tháng 1-1931, bà A.G.Walker, một nữ ca sĩ danh tiếng xứ Rhodésie đã nhịn ăn 101 ngày, mỗi ngày chỉ uống vài lít nước nóng và lạnh để cho người gầy bớt.
Một kỹ nghệ gia người Anh 53 tuổi ở tại Leeds (Luân Đôn) nhịn ăn dưới sự chăm sóc của John W. Armstrong, ông ta cân nặng 86kg 500 lúc khởi sự nhịn ăn, còn lại 59kg 800 sau 50 ngày nhịn ăn và rốt cuộc cân nặng 46kg 200 sau 101 ngày nhịn ăn, như vậy là hao mất 40kg 300. Trước ngày nhịn ăn, ông ta bị mù (hai mắt bị nội trướng thong manh), mũi không biết mùi, động mạch cứng, tim rối loạn. Trước kia ông đã từng chữa với i-ôt, aspirine, atropine và nhiều thuốc khác. Trước ngày nhịn ăn, ông ta không phân biệt được cả ngày và đêm. Sau 56 ngày nhịn ăn, thuỷ tinh thể trong mắt bớt đục và ông đã thấy mờ mờ. Sau đó thị giác phục hồi dần dần đến khi sáng hẳn như trước. Khứu giác cũng trở lại bình thường, tình trạng của tim và động mạch khả quan. Các phóng viên báo chí phỏng vấn, ông trả lời: “Tôi đã tuyệt vọng. Chữa đủ cách mà chẳng ăn thua gì, cuối cùng tôi đành liều theo phép nhịn ăn. Tôi làm bất cứ cách nào với hy vọng lấy lại sức khoẻ. Tôi bắt đầu phải nhịn ăn thử 10 ngày, thấy hơi đỡ, thế là tôi cứ tiếp tục mãi. Đến 101 ngày thì tôi dừng lại, nhưng có lẽ tôi có thể tiếp tục thêm mười ngày nữa nếu tôi muốn”.
Ông ta nói: “Nhịn ăn dễ ợt sau 15 ngày đầu, nhưng trong giai đoạn đầu ấy phải có một ý chí để chống lại sức cám dỗ của thức ăn”.
Ông ta vẫn có thể dạo chơi thong thả hàng ngày trong thời kỳ nhịn ăn và trả lời lưu loát các phóng viên trong 2 giờ đồng hồ liên tiếp vào ngày thứ 101.
Ông A.J Carlson (Anton Julius Carlson), giáo sư sinh lý học Đại học đường Chicago chủ trương rằng một người khỏe mạnh ăn uống đầy đủ có thể sống từ 50 đến 75 ngày không cần thực phẩm với điều kiện đừng bắt người ấy chịu lạnh quá đáng, tránh việc lao lực và giữ tinh thần cho bình tĩnh. Thời hạn 75 ngày cũng chỉ là thời hạn trung bình mà lắm người vượt khỏi.
Trong tác phẩm “The Natural Cure”, bác sĩ Page viết: “Người ta thường cho những người nhịn ăn là những kẻ phi thường nhưng thật ra họ chỉ phi thường nơi điểm họ biết khả năng có thể chịu đựng được sự nhịn ăn và họ có gan thực hành sự hiểu biết ấy”.
Người ta thường phản đối sự nhịn ăn nơi con người lấy cớ rằng con người không phải là giống vật Đông miên (ngủ đông). Tuy rằng con người không có những dự trữ thức ăn đặc biệt như giống gấu ở Nga, giống hải cẩu ở Bắc cực nhưng con người lại có thức ăn dự trữ trong khắp các tế bào giống như mọi thú vật như chó, mèo, heo, ngựa, trâu, voi cũng chẳng phải là những thú vật Đông miên nhưng chúng vẫn theo bản năng nhịn ăn mỗi khi đau ốm hoặc bị thương. Nếu không có những thức ăn dự trữ trong tế bào cơ thể trong những trường hợp như vậy hoặc đói kém thì chúng làm sao có thể sống còn được. Mỗi tế bào, mỗi cơ quan đều có thức ăn dự trữ của nó, hơn thế nữa, còn có một số lớn glycogene tích tụ trong gan, một số prôtêin và nhiều chất bổ dưỡng luân lưu trong máu, trong nước lâm ba (Bạch huyết bào/lymphocyte hay lympho bào hoặc tế bào lympho), nhiều ký lô mỡ (dù người rất mảnh khảnh cũng có rất nhiều mỡ) và rất nhiều thức ăn dự trữ trong tuỷ xương. Trong các nội hạch dự trữ rất nhiều các loại vitamin.
Đông miên khác sự nhịn ăn ở loài vật Đông miên có những nguồn dự trữ riêng trong thời kỳ đó hơn nữa suất biến dưỡng (trao đổi chất hay metabolism) thấp thua nhiều trong trường hợp Đông miên vì vậy sự hao tổn thức ăn rất ít.
Nhịn ăn là một sự hấp dưỡng vật thực đặc biệt dưới hình thức rất đơn giản của cơ thể nếu ta có thể nói. Chẳng những các thực phẩm dự trữ có thể nuôi những tế bào cần thiết cho sinh mạng trong một thời gian nào đó mà không một tế bào nào cần thiết cho sinh mạng lại bị thương tổn một khi các thức dự trữ đó đang còn. Sợ hãi sự nhịn ăn thiếu căn cứ vì nó được thành lập trên vô minh, trên một quan niệm sai lầm.
Nhịn ăn là không ăn mà chỉ uống nước cho đến lúc thức ăn dự trữ không còn nữa. Còn đói ăn là cứ nhịn ăn đến lúc mà các thức ăn dự trữ đã tiêu thụ hết rồi.
Cơ thể tận dụng tối đa thức ăn dự trữ: nó cố dùng những tài nguyên lâu chừng nào tốt chừng ấy. Thật vậy, những chất tuyệt đối cần thiết cho sinh mạng và cho sự vận chuyển các cơ quan cần thiết như tim, thần kinh hệ chỉ được đem dùng khi nào những cơ quan khác không thể cung cấp được. Thứ được dùng trước hết là mỡ và glycogene, thứ đến là các chất protêin. Nhịn ăn càng lâu, cơ thể càng tiết kiệm thức ăn bằng cách giảm mọi hoạt động vật chất, sinh lý đến mức tối thiểu. Nếu người nhịn ăn nghỉ ngơi thì số dự trữ ít tiêu hao hơn. Sự hoạt động của cơ thể, cơn sốt, sự lạnh lẽo bên ngoài, nỗi buồn rầu, niềm xúc động mạnh làm gia tăng sự tiêu hao các thức ăn dự trữ.
Trong sách “The Natural Cure”, bác sĩ Page nói: “thức ăn dự trữ trong tế bào để tự dưỡng trong lúc nhịn ăn là thực phẩm tốt nhất, quý báu nhất đối với người lâm bệnh, đặc biệt là trong các bệnh cấp tính trầm trọng”.
Các mô của cơ thể có thể xem như một bể chứa thức ăn có thể vận chuyển đến bất cứ nơi nào theo sự cần dùng. Khả năng của cơ thể về việc nuôi các mô quan hệ đến sinh mạng do các thức ăn dự trữ và các mô ít cần thiết cho sự sống là một sự quan trọng đối với người bệnh không thể ăn uống và tiêu hoá thức ăn. Không có khả năng này, người bệnh trong cơn cấp phát sẽ chết đói ngay.
Người ta thấy rằng những mô cần thiết cho sinh mạng được nuôi dưỡng trước hết do những thức ăn dự trữ và khi những thức ăn này đã cạn thì cơ thể tự dùng những mô ít quan trọng cho sự sống để nuôi dưỡng các mô cần thiết cho sinh mạng. Cho nên một khi thức ăn dự trữ đang còn thì nhất định không có sự thiệt hại mảy may đến các mô cần thiết cho sinh mạng.
Người bệnh theo bản năng mà nhịn ăn nhưng thường các y sĩ, các người nuôi bệnh hay cha mẹ, anh, em bệnh nhân lại ép uổng người bệnh cố ăn để giữ sức. Thực là một điều lầm lẫn lớn mà người ta không ngờ đến.
(Hết phần Nhịn ăn với con người)
- Mục lục
- Phần sau: Trạng thái tự phân
- Phần trước: Sự nhịn ăn của loài vật
Tag trong bài viết:
Xin lưu ý: Một số thuật ngữ trong sách này, nhất là danh từ, có thể ít được sử dụng hoặc không còn được sử dụng ngày nay. Chúng tôi chú thích bằng thuật ngữ tương đương trong dấu ngoặc đơn và in nghiêng. Ví dụ: trụ sinh (kháng sinh).
Vui lòng dẫn nguồn nhinanchuabenh.com khi sử dụng thông tin từ trang này. Xin cảm ơn!